1. Các đợt cải cách chính sách tiền lương ở Việt Nam
Cải cách tiền lương giai đoạn 1960-1984
![]() |
Một trong những điểm nhấn của chính sách cải cách tiền lương ở Việt Nam trong giai đoạn 1960-1984 là hướng tới mục tiêu chiếu cố toàn diện, cân nhắc kỹ lưỡng giữa yêu cầu và khả năng, kết hợp nguyên tắc với thực tế để vận dụng đúng đắn nguyên tắc phân phối theo lao động vào tình hình thực tế đất nước (...), chống chủ nghĩa bình quân, phải chống xu hướng đòi công bằng hợp lý một cách tuyệt đối, không phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất nước(2).
Bạn đang xem: Tại sao phải cải cách chính sách tiền lương
Cải cách tiền lương giai đoạn 1985-1992
Mặc dù còn nhiều hạn chế, tuy nhiên có thể khẳng định chính sách cải cách tiền lương của Việt Nam trong giai đoạn 1985-1992 đã có tiến bộ đáng kể trong việc quy định về tiền lương tối thiểu; đã có sự phân định về tiền lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp trong nước và các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo sự công bằng trong việc trả công cho người lao động.
Cải cách tiền lương giai đoạn 1993-2002
Sau biến cố ở Đông Âu và Liên Xô, nền kinh tế nước ta hết sức khó khăn, tỷ lệ lạm phát tăng cao (năm 1990 là 70%, năm 1991 là 67,5% và năm 1992 là 16,7%). Do vậy, chính sách tiền lương ở Việt Nam mất dần ý nghĩa trong sản xuất và đời sống xã hội. Tiền lương không đảm bảo đời sống của người lao động và được tiền tệ hóa ở mức thấp. Việc đổi mới chính sách tiền lương không được tiến hành đồng bộ càng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn trong bản thân chính sách tiền lương, tạo ra những mâu thuẫn tiêu cực trong phân phối thu nhập và vi phạm nghiêm trọng công bằng xã hội. Trước tình hình đó, Nghị định số 25/CP của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu năm 1993 là 120.000 đồng/tháng, làm căn cứ để tính các mức lương khác của hệ thống bảng lưởng, mức phụ cấp lương và trả công đối với người làm công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường.
Mục tiêu của cải cách chính sách tiền lương của Việt Nam trong giai đoạn 1993-2002 là phải làm cho tiền lương trở thành thước đo giá trị sức lao động, áp dụng ở mọi thành phần kinh tế có quan hệ lao động theo thị trường. Đặc biệt, tiền lương tối thiểu phải thực sự là “lưới an toàn” cho người lao động, đảm bảo cho họ duy trì được mức sống tối thiểu cần thiết và tái sản xuất sức lao động; đáp ứng yêu cầu tiền tệ hóa tiền lương, dần thay thế và tiến tới xóa bỏ chế độ phân phối hiện vật có tính chất tiền lương. Những thành công và hạn chế của cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 1993-2002 đặt nền móng cho việc hoàn thiện các quy định về tiền lương dựa trên cơ sở có quan hệ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động; tạo sự cạnh tranh giữa những người lao động và điều kiện cho sự phát triển thị trường lao động; tách chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước với tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp; tách dần chính sách tiền lương với chính sách bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công. Việc Quốc hội ban hành Bộ luật Lao động, (1994) đã xác lập: tiền lương tối thiểu đã được ghi nhận một cách đầy đủ, toàn diện trong văn bản pháp lý có hiệu lực cao là Bộ luật. Bộ Luật Lao động góp phần tạo nên trật tự cho các quan hệ xã hội trong lĩnh vực lao động thay đổi theo hướng tích cực và hội nhập với thế giới.
Cải cách tiền lương giai đoạn 2003-2020
Có thể khẳng định từ năm 2004 đến nay, Việt Nam đã liên tục hoàn thiện chế độ tiền lương trên cơ sở mở rộng quan hệ tiền lương, thu gọn một bước hệ thống thang, bảng, ngạch, bậc lương, đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Với quy trình thực hiện cải cách theo nhiều bước, các quy định về tiền lương của giai đoạn 2003-2020 có xu hướng đảm bảo cuộc sống của người lao động và gia đình họ; vừa không tạo ra gánh nặng cho quỹ lương của Nhà nước và người sử dụng lao động, đảm bảo tính hợp lý và hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ lao động. Tuy nhiên, thực chất của cải cách chính sách tiền lương trong giai đoạn này vẫn dựa trên cách tính lương năm 1993, chỉ điều chỉnh tăng mức lương cơ sở, mở rộng quan hệ tiền lương, tách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực chi từ ngân sách nhà nước... Vì vậy, chính sách tiền lương của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập so với nhu cầu của thực tiễn phát triển đất nước. Điều này đặt ra yêu cần một cuộc cải cách chính sách tiền lương toàn diện, đồng bộ; dựa trên nhu cầu của thực tiễn, bằng chứng khoa học thuyết phục.
Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước ta cũng xác định những mục tiêu cơ bản để cải cách chế độ tiền lương giai đoạn sau năm 2020, thể hiện ở 8 nội dung sau:
(1) Tiếp tục điều chỉnh tăng lương cơ sở và mức lương tối thiểu vùng. Đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang: Từ năm 2018 đến 2020, tiếp tục điều chỉnh tăng mức lương cơ sở. Đến năm 2030, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng hoặc cao hơn mức lương thấp nhất của vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp. Đối với người lao động trong doanh nghiệp, điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng để đến năm 2020, mức lương tối thiểu bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Từ năm 2021, vẫn tiếp tục điều chỉnh lương tối thiểu vùng theo định kỳ; (2) Tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức được thiết kế theo cơ cấu mới, gồm: Lương cơ bản (chiếm khoảng 70% tổng quỹ lương) và các khoản phụ cấp (chiếm khoảng 30% tổng quỹ lương). Bổ sung tiền thưởng (quỹ tiền thưởng bằng khoảng 10% tổng quỹ tiền lương của năm, không bao gồm phụ cấp); 3) Xây dựng bảng lương mới theo vị trí, chức vụ, gồm 5 bảng lương: 1 bảng lương chức vụ áp dụng đối với chức vụ lãnh đạo; 1 bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp viên chức áp dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo; 3 bảng lương đối với lực lượng vũ trang: 1 bảng lương sĩ quan quân đội, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ công an; 1 bảng lương quân nhân chuyên nghiệp, chuyên môn kỹ thuật công an và 1 bảng lương công nhân quốc phòng, công nhân công an; (4) Bãi bỏ mức lương cơ sở, hệ số lương và xây dựng mức lương cơ bản bằng số tiền cụ thể; (5) Thực hiện chế độ hợp đồng lao động với những người làm công việc thừa hành, phục vụ; (6) Bãi bỏ và gộp nhiều loại phụ cấp của cán bộ, công chức, viên chức, như: thâm niên nghề; chức vụ lãnh đạo; công tác đảng, đoàn thể chính trị - xã hội; công vụ; phụ cấp độc hại, nguy hiểm. Đồng thời, gộp các phụ cấp sau: phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề và phụ cấp độc hại, nguy hiểm; phụ cấp đặc biệt, phụ cấp thu hút và trợ cấp công tác lâu năm ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thành phụ cấp công tác ở vùng đặc biệt khó khăn; (7) Bãi bỏ nhiều khoản chi ngoài lương: Tiền bồi dưỡng họp; tiền bồi dưỡng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án; hội thảo...; (8) Doanh nghiệp được hoàn toàn tự quyết chính sách tiền lương. Theo đó, doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước) được tự quyết định chính sách tiền lương và trả lương cho người lao động không thấp hơn mức lương tối thiểu. Nhà nước chỉ công bố mức lương tối thiểu vùng theo tháng, theo giờ và hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường lao động mà không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp(7).
Xem thêm: “ Xin Đừng Quên Em Đồng Đại Vi, Đồng Đại Vỹ Lãng Mạn Bên Vợ Yêu
2. Một số nhận xét về các đợt cải cách tiền lương ở nước ta vừa qua
Thứ nhất, từ việc phân tích các giai đoạn cải cách chính sách tiền lương của Việt Nam có thể nhận thấy quá trình phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận về chính sách tiền lương của Đảng và Nhà nước Việt Nam: từ chỗ chỉ bó hẹp trong khu vực Nhà nước và phụ thuộc vào ngân sách sang thực hiện đồng bộ ở cả hai khu vực: nhà nước và doanh nghiệp; từ chỗ chỉ quan tâm đến vấn đề cải thiện mức lương tối thiểu cho người lao động sang đổi mới chính sách tiền lương một cách toàn diện; từ chỗ xuất phát từ yếu tố chủ quan, duy ý chí chính trị và đạo đức đến ngày càng phù hợp hơn với các quy luật, nguyên tắc thị trường, với tăng năng suất lao động, kết quả lao động và nguồn lực tài chính; cũng như có tính đến các yếu tố về đạo đức và xã hội; từ chỗ cải cách chính sách tiền lương mang tính đơn lẻ, độc lập hướng đến cải cách đồng bộ, toàn diện gắn với những vấn đề/chính sách có liên quan của thể chế chính sách; từ chỗ thực hiện mang tính bị động/đối phó/chạy theo và thực hiện ngay lập tức sang thực hiện mang tính dự báo/chủ động/tích cực và thực hiện theo lộ trình; từ chỗ coi chính sách tiền lương là vấn đề thuần túy có tính chất chi phí nguồn lực sang là vấn đề đầu tư cho phát triển bền vững. Đối với khu vực doanh nghiệp, Nhà nước giảm dần sự can thiệp hành chính, quản lý tiền lương thông qua quy định mức lương tối thiểu vùng là mức sàn thấp nhất để bảo vệ người lao động yếu thế. Thay đổi cơ chế xác lập mức lương tối thiểu vùng, từ ấn định của Nhà nước sang dựa trên kết quả thương lượng 3 bên(8).
Thứ hai, từ thực tiễn cải cách chính sách tiền lương, nhất là từ giai đoạn từ 1992 đến nay cho thấy những nỗ lực, cố gắng của cả hệ thống chính trị, cải cách chính sách tiền lương của nước ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Ðảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm quan tâm và có nhiều cố gắng trong việc cải cách tiền lương cho người lao động, kể cả những giai đoạn đất nước có chiến tranh, bị bao vây cấm vận. Thực tế Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản điều chỉnh, bổ sung, từng bước hoàn thiện chính sách tiền lương, hoàn thiện cơ chế quy định mức lương tối thiểu vùng và chế độ tiền lương của khu vực doanh nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; thực hiện nguyên tắc chỉ điều chỉnh mức lương cơ sở và ban hành chính sách, chế độ mới đối với khu vực công khi đã bố trí đủ nguồn lực...(9).
Thứ ba, mặc dù những kết quả đạt được trong cải cách tiền lương giai đoạn từ năm 2002 đến nay là rất đáng kể, tuy nhiên so với nhu cầu của người lao động, yêu cầu của thực tiễn phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, chính sách tiền lương vẫn còn rất nhiều bất cập, hạn chế ở cả hai khu vực: nhà nước và doanh nghiệp. Với rất nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, những hạn chế này không dễ khắc phục một sớm một chiều. Tuy nhiên, chính điều này càng đặt ra yêu cầu, quyết tâm chính trị và sự kỳ vọng lớn đối với chương trình cải cách chính sách tiền lương theo tinh thần Nghị quyết số 27 khóa XII của Đảng trong giai đoạn sau năm 2020. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu cải cách tiền lương trong giai đoạn này, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp và có sự tham gia tích cực, trách nhiệm, sáng tạo và hiệu quả của tất cả các chủ thể có liên quan thuộc khu vực nhà nước và doanh nghiệp.
Có thể khẳng định, chính sách cải cách tiền lương theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII ở Việt Nam hiện nay là một cuộc cải cách mang tính cách mạng, toàn diện, đồng bộ và có tính khả thi cao. Nó là một yêu cầu tất yếu, khách quan trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hiện nay. Khác với những cuộc cải cách về tiền lương trước đây, cuộc cải cách tiền lương này có nhiều cơ sở thuyết phục về lý luận và thực tiễn, cũng như lộ trình và giải pháp thực hiện phù hợp; chúng ta có thể thấy được trước về khả năng thành công của nó. Trên cơ sở đó, góp phần quan trọng tạo ra động lực thực sự để người lao động trong khu vực nhà nước và doanh nghiệp cống hiến, sáng tạo và phát triển đất nước bền vững.
TS. Đỗ Văn Quân- Viện Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS Lê Trung Kiên- Trường Chính trị Kiên Giang
------------------------------------
(1) ĐCSVN:Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
(8), (9) Vương Đình Huệ: “Cải cách chính sách tiền lương để nâng cao đời sống cho cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp”, 2018. http://tapchitaichinh.vn.