Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tàng. Sự ra đời của Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỳ XX, là nhân tố quyết định đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thực tiễn hơn 90 năm qua đã khẳng định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của Đảng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đứng trước những thách thức to lớn: Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Tháng 6/1884 triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Patơnốt thừa nhận sự thống trị của thực dân Pháp. Kể từ khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã thi hành chính sách cai trị trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Chính sách cai trị ấy đã làm cho mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân ta với thực dân Pháp ngày càng thêm sâu sắc. Đứng trước yêu cầu của lịch sử, trong nước đã xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh từ lập trường tư tưởng phong kiến đến lập trường tư tưởng tư sản, tiểu tư sản. Phong trào Cần Vương (1885-1896); cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884-1913); xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức lãnh đạo; xu hướng cứu nước bằng con đường cải cách canh tân đất nước do Phan Châu Trinh và một số nhà yêu nước đề xướng và tổ chức; phong trào Việt Nam quốc dân Đảng… Tất cả các phong trào yêu nước trong bối cảnh đó đều diễn ra sôi nổi, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường chống lại thực dân Pháp giành độc lập tự do cho dân tộc. Tuy nhiên vì thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn, thiếu tổ chức lãnh đạo cách mạng nên các phong trào cách mạng lần lượt đi đến thất bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đi đến thành công.
Trong những năm 1928-1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác - Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân từ hình thức đấu tranh tự phát, đơn lẻ, chủ yếu đòi quyền lợi về kinh tế sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, có sự phối hợp giữa các ngành và các địa phương. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân, phong trào yêu nước trong lúc đó đặt ra một yêu cầu lớn là phải có một tổ chức tiên phong lãnh đạo phong trào cách mạng. Xuất phát từ yêu cầu lịch sử, từ nửa cuối năm 1929 đến đầu năm 1930 ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện các tổ chức Cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929); An Nam Cộng sản Đảng (Mùa thu năm 1929); Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn (tháng 1/1930). Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn: Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước - kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; tiếp đến là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược, viết nên bản hùng ca Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, làm nên khúc tráng ca khải hoàn Đại thắng mùa xuân 1975, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả với nước bạn Lào và Campuchia; khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước.
Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao; diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố. Ðã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với tất cả các nước lớn, quan trọng trên thế giới. Chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước.
Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa đó là minh chứng cho con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn thể dân tộc ta đã lựa chọn. Đây cũng là cơ sở để khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện đánh dấu bước ngoặt quyết định của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Bạn đang xem: Tại sao nói đảng cộng sản việt nam ra đời là bước ngoặt quyết định của cách mạng việt nam
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đứng trước những thách thức to lớn: Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Tháng 6/1884 triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Patơnốt thừa nhận sự thống trị của thực dân Pháp. Kể từ khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã thi hành chính sách cai trị trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Chính sách cai trị ấy đã làm cho mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân ta với thực dân Pháp ngày càng thêm sâu sắc. Đứng trước yêu cầu của lịch sử, trong nước đã xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh từ lập trường tư tưởng phong kiến đến lập trường tư tưởng tư sản, tiểu tư sản. Phong trào Cần Vương (1885-1896); cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884-1913); xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức lãnh đạo; xu hướng cứu nước bằng con đường cải cách canh tân đất nước do Phan Châu Trinh và một số nhà yêu nước đề xướng và tổ chức; phong trào Việt Nam quốc dân Đảng… Tất cả các phong trào yêu nước trong bối cảnh đó đều diễn ra sôi nổi, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường chống lại thực dân Pháp giành độc lập tự do cho dân tộc. Tuy nhiên vì thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn, thiếu tổ chức lãnh đạo cách mạng nên các phong trào cách mạng lần lượt đi đến thất bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đi đến thành công.
Trong những năm 1928-1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác - Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân từ hình thức đấu tranh tự phát, đơn lẻ, chủ yếu đòi quyền lợi về kinh tế sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, có sự phối hợp giữa các ngành và các địa phương. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân, phong trào yêu nước trong lúc đó đặt ra một yêu cầu lớn là phải có một tổ chức tiên phong lãnh đạo phong trào cách mạng. Xuất phát từ yêu cầu lịch sử, từ nửa cuối năm 1929 đến đầu năm 1930 ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện các tổ chức Cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929); An Nam Cộng sản Đảng (Mùa thu năm 1929); Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn (tháng 1/1930). Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
Xem thêm: Vé Khứ Hồi Hà Nội Đà Nẵng Giá Bao Nhiêu Tiền? Vé Máy Bay Khứ Hồi Đi Đà Nẵng Giá Bao Nhiêu Tiền
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn: Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước - kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; tiếp đến là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược, viết nên bản hùng ca Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, làm nên khúc tráng ca khải hoàn Đại thắng mùa xuân 1975, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả với nước bạn Lào và Campuchia; khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước.
Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao; diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố. Ðã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với tất cả các nước lớn, quan trọng trên thế giới. Chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước.
Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa đó là minh chứng cho con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn thể dân tộc ta đã lựa chọn. Đây cũng là cơ sở để khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện đánh dấu bước ngoặt quyết định của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.